Tiết trời đang vào đông, lạnh se sắt. Một mùa lễ Giáng sinh đang rộn ràng gõ cửa. Dù là người theo Công giáo hay không thì mọi người ai cũng muốn được hòa mình vào dòng người hướng về các nhà thờ để được nghe tiếng chuông yên bình chúc mừng sinh nhật của Chúa mà lòng tràn đầy cảm xúc.
Ở giáo đường nào cũng có hang đá, máng cỏ, ngôi sao, cây thông Noel… Đêm về, cùng người thân quây quần chúc một mùa Giáng sinh an lành với những món quà dễ thương. Vậy bạn đã biết hết ý nghĩa của các biểu tượng trong lễ mừng Chúa sinh ra đời chưa? …
Tiết trời đang vào đông, lạnh se sắt. Một mùa lễ Giáng sinh đang rộn ràng gõ cửa. Dù là người theo Công giáo hay không thì các bạn trẻ cũng muốn được hòa mình vào dòng người hướng về các nhà thờ để được nghe tiếng chuông yên bình chúc mừng sinh nhật của Chúa mà lòng tràn đầy cảm xúc.
Ở giáo đường nào cũng có hang đá, máng cỏ, ngôi sao, cây thông Noel… Đêm về, cùng người thân quây quần chúc một mùa Giáng sinh an lành với những món quà dễ thương. Vậy bạn đã biết hết ý nghĩa của các biểu tượng trong lễ mừng Chúa sinh ra đời chưa?
Hang đá và máng cỏ
Trong truyền thuyết, Chúa sinh ra trong một hang đá nhỏ, nơi máng cỏ của các mục đồng chăn chiên tại thành Bethelem. Ngày nay, vào đêm 24/12 tại các giáo đường đều có hang đá với máng cỏ, bên trong có tượng Chúa Hài đồng, tượng Đức mẹ Maria, chung quanh có những con lừa, tượng Ba Vua, một số thiên thần, Thánh Giuse trên mái nhà có ánh sáng, chiếu từ một ngôi sao hướng dẫn ba vua tìm đến với Chúa. Mọi người đều hướng về Chúa nhân từ, cầu nguyện Chúa cứu rỗi cho nhân loại tránh khỏi chiến tranh, nghèo đói và bất hạnh.
Cây thông Noel
Vào mùa đông, trong khi mọi cây cối đều héo rũ thì riêng mình cây thông vẫn xanh tươi. Chính bởi vậy, người cổ đại đã coi thông là loại cây phục sinh. Vào ngày đông chí, họ trang trí cây thông với trái cây, hoa và lúa mỳ. Lần đầu tiên mà cây thông được biết đến như loại cây của ngày lễ Noel là ở Đức. Truyền thuyết kể lại rằng vào cuối thế kỷ VII, thánh Boniface (sinh vào năm 680) đã cố gắng thuyết phục các đạo sỹ rằng cây sồi không phải là cây thánh bằng cách cho đốn một cây sồi. Khi cây sồi đổ, nó đè bẹp mội vật nằm dưới đường đổ của nó, trừ một cây thông nhỏ. Từ đó, ra đời ý nghĩa cây thông là cây của chúa Jesus. Bởi vậy mà vào lễ Noel, người Đức đã từng có truyền thống trồng những cây thông nhỏ. Người ta cho rằng Martin Luther, nhà lãnh đạo phái cải cách tôn giáo Tin lành là người đầu tiên thắp nến trên cây Noel. Khi trở về nhà vào một đêm mùa đông gần lễ Giáng Sinh, ông đã sững sờ trước vẻ đẹp của ánh sáng từ các ngôi sao chiếu rọi trên cành cây thông nhỏ trước cửa nhà mình. Ông tái hiện lại cảnh tượng này bằng cách gắn các cây nến lên cành của cây thông Noel trong nhà. Đến thế kỷ thứ 11, cây thông Noel còn được gán cho biểu tượng là cây thiên đường. Điều này giải thích lý do vì sao mà người ta còn treo thêm lên cây những trái táo đỏ, để gợi lại hình ảnh trái cấm của Adam và Eva. Đến thế kỷ 14, cây thông Noel được gắn thêm ngôi sao ở trên đỉnh cây. Đây chính là biểu tượng của ngôi sao Bethleem chiếu sáng trên bầu trời khi chúa hài nhi ra đời. Ngôi sao này đã dẫn đường cho ba vị thần cư ngụ ở phương đông ("rois mages") Gaspard, Melchior và Balthasar đến gặp chúa. Đã từng có giả thuyết khoa học cho đó chính là sao chổi Halley. Mãi đến thế kỉ 19 thì cây Noel mới được sử dụng rộng rãi ở Anh. Nó được những người Ðức ở Pennsylvania mang sang nước Mỹ vào những năm 182.
Chiếc gậy kẹo
Vào năm 1800, một người làm kẹo ở Ấn Độ muốn biểu đạt ý nghĩa của lễ Giáng sinh qua một biểu tượng được làm bằng kẹo. Ông bắt đầu thực hiện ý tưởng của mình bằng cách uốn cong một trong những thỏi kẹo của mình thành hình một chiếc gậy kẹo. Qua cây gậy kẹo của mình, ông đã kết hợp những biểu tượng thể hiện tình yêu và sự hy sinh của Chúa Jesus.
Màu trắng biểu hiện cho sự trong trắng và vô tội của Chúa Jesus. Sau đó, ba sọc nhỏ tượng trưng cho những đau đớn mà Ðức Chúa đã phải chịu trước khi ngài chết trên cây thập tự giá. Ba sọc đó còn biểu hiện ba ngôi thiêng liêng của Chúa (sự hợp nhất của Cha, Con và Thánh thần). Ông thêm vào một sọc đậm để tượng trưng cho máu mà Chúa đã đổ cho loài người. Khi nhìn vào cái móc của cây gậy, ta thấy nó giống hệt cây gậy của người chăn cừu vì Chúa Jesus chính là người chăn dắt con người. Nếu bạn lật ngược cây gậy, nó sẽ trở thành chữ J tượng trưng cho chữ cái đầu tiên của tên Chúa Jesus.
Ngôi sao Giáng Sinh
Ngôi sao 5 cánh thường xuất hiện rực rỡ đủ màu sắc trong mùa Giáng sinh. Một ngôi sao to lớn được treo ở chỗ cao nhất của tháp chuông nhà thờ. Từ đó căng giấy ra bốn phía, có nhiều ngôi sao nhỏ, treo đèn lồng và kết hoa rất đẹp mắt.
Ngôi sao trong lễ Giáng sinh có ý nghĩa đặc biệt, theo tương truyền lúc Chúa vừa chào đời thì trên trời xuất hiện một ngôi sao rực rỡ. Ánh sáng tỏa ra mấy trăm dặm. Từ các vùng phía đông xa xôi nay thuộc lãnh thổ Iran và Syria, có 3 vị vua được mặc khải tin rằng cứ lần theo ánh sáng ngôi sao tìm tới chắc chắn sẽ gặp phép lạ gọi là lễ ba vua. Từ đó, ba vị tìm theo sự dẫn đường của ánh sáng để đến được hang đá thành Bethelem nơi Chúa đã ra đời. Ba vị này thân quỳ trước mặt Chúa, dâng lên Chúa các phẩm vật trầm hương và vàng bạc châu báu.
Ngôi sao trở thành biểu trưng ý nghĩa trong mùa Giáng sinh và được treo chỗ trang trọng nhất ở các giáo đường, cơ sở tôn giáo trong đêm Giáng sinh để nhớ đến sự tích trên. Do ý nghĩa ngôi sao còn tượng trưng cho phép lạ của Thượng đế.
Quà tặng trong những chiếc bít tất
Tương truyền rằng, nhà kia có 3 cô gái trẻ đến tuổi lập gia đình nhưng không có chàng trai nào nhòm ngó đến vì gia cảnh quá nghèo. Đức giám mục Myra rất thương xót nên đã ném những đồng tiền vàng xuống ống khói nhà của ba cô gái. Những đồng tiền vàng rơi từ trên nóc nhà xuống đúng các đôi bít tất mà các cô treo hong bên lò sưởi. Khỏi phải nói cũng biết rằng các cô vui mừng đến thế nào. Họ đã có cơ hội để thực hiện nguyện ước của mình.
Câu chuyện thần kỳ kia được lan truyền đi khắp nơi, ai ai cũng muốn mình trở thành người may mắn nên đều bắt chước 3 cô gái treo tất bên lò sưởi để hy vọng nhận được quà. Trẻ em hy vọng nhận được quà nhiều nhất. Mọi người trong nhà cũng nhân cơ hội này để tặng quà cho các em với mong muốn là các em sẽ ngoan ngoãn và học giỏi. Từ đó có tục trẻ em treo bít tất cạnh lò sưởi để nhận quà như mơ ước từ ông già Noel.
Cây tầm gửi và cây ô rô
Hai trăm năm trước khi Chúa Jesus ra đời, người ngoại đạo dùng cây tầm gửi để kỉ niệm ngày Mùa Ðông đến. Họ thường hái loại cây kí gửi này và dùng nó để trang trí cho ngôi nhà của mình. Họ tin tưởng rằng loại cây này có một khả năng chữa trị đặc biệt đối với mọi loại bệnh tật từ bệnh vô sinh của phụ nữ cho đến ngộ độc thức ăn. Những người dân ở bán đảo Scandinavia cũng coi cây tầm gửi là biểu tượng của hoà bình và sự hòa thuận. Họ còn đồng nhất hình tượng cây tầm gửi với nữ thần tình yêu của họ là thần Frigga. Phong tục hôn nhau dưới bóng cây tầm gửi hẳn là xuất phát từ từ niềm tin này. Lúc đầu nhà thờ cấm sử dụng cây tầm gửi trong lễ Giáng Sinh vì nguồn gốc ngoại đạo của nó. Thay vì sử dụng tầm gửi, các cha đạo đề nghị dùng cây ô rô làm loại cây dùng cho Lễ Giáng Sinh.
Bánh Buche Noel
Tổ tiên người phương Tây thường nhóm củi trong ống khói nhà, họ tin rằng lửa càng kêu lách cách thì các thần dữ sẽ tránh xa. Ngày nay, tập tục mất dần vì không mấy nhà còn ống khói. Thay vào đó, theo sáng kiến của một thợ làm bánh ở Pháp, năm 1875, người ta làm chiếc bánh ngọt có hình cây củi để mọi người thưởng thức trong đêm Noel và lưu truyền cho đến nay.
Ký hiệu Xmas
Từ viết tắt này có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp. Trong tiếng Hy Lạp Xristos là Chúa Jesus. Vào thế kỷ thứ XVI, những người châu Âu bắt đầu dùng chữ cái đầu tiên của tên Ðức Chúa là “X” để viết tắt cho từ Christ trong Christmas.
Chuông Thánh Đường
Trong vài nền văn hóa Á Châu, tiếng chuông được dùng báo hiệu cho quần chúng biết một biến cố hoan hỉ hay một sự kiện buồn não vừa xảy đến. Sau khi Chúa hài đồng giáng sinh, tục lệ này được truyền đến cho những quốc gia Tây phương để rung lên chào mừng Chúa Cứu thế xuống trần. Tại đất nước Tây Ban Nha, các chuông nhà thờ ngân vang vào lúc nửa đêm báo hiệu Chúa ra đời.
Thiệp Giáng Sinh
Vào thời cổ Ai Cập và La Mã, người ta có thói quen gửi lời chúc mừng đầu năm khắc trên những mảnh gỗ. Đến năm 1843, tại Anh quốc, Sir Henry Cole, vì quá bận bịu trong công việc làm ăn không thể viết thư được nhân mùa Giáng SInh và muốn giúp phát triển hệ thống Bưu điện nên đã in một số thiệp gửi đến các đồng sự của ông. Lần ấy, đã có hàng ngàn tấm thiệp được in và bán với giá một “shilling”.
Nến Giáng sinh
Có nhiều truyền thuyết kể về những cây nến đêm Giáng Sinh. Nhiều người cho rằng Martin Luther là người đầu tiên có sáng kiến thắp nhiều cây nến trên các cành cây thông mùa Giáng Sinh. Khi trở về nhà vào một đêm mùa đông gần lễ Giáng Sinh, ông đã sững sờ trước vẻ đẹp của ánh sáng từ các ngôi sao chiếu rọi trên cành cây thông nhỏ trước cửa nhà mình. Ông tái hiện lại cảnh tượng này bằng cách gắn các cây nến lên cành của cây thông Noel trong nhà để tượng trưng cho Ngôi Sao trên làng Bê-lem. Có một huyền thoại khác kể rằng một bé trai nọ bị đi lạc đêm Giáng Sinh nhang nhờ ánh đèn nến nới cửa sổ phòng mẹ, đã tìm được lối về đến nhà.
Bí ẩn về ngôi sao Noel
Trong tất cả các tranh ảnh Chúa giáng sinh, trên bầu trời bao giờ cũng có một ngôi sao sáng rực rỡ, Kinh Thánh gọi đó là "ngôi sao Bethlehem", ngôi sao đã dẫn đường cho Ba Vua tới hang đá nơi Chúa sinh ra. Ngôi sao này còn có tên là ngôi sao Giáng sinh, từ lâu đã là mối tranh cãi của các nhà thiên văn học. Mới đây Nibel Henbest, một nhà khoa học người Anh đã dựa vào sự chuyển động của quỹ đạo trong Thái dương hệ, để giải tỏa câu hỏi tại sao chỉ có Ba Vua nhìn thấy ngôi sao đó, trong khi lịch sử thiên văn không ghi nhận được.
Theo Nibel thì vào năm 1604, nhà toán học Johannes Kepler đã tính được vị trí các hành tinh vào thời Chúa giáng sinh, cũng tìm được sự giao hội đặc biệt của các chòm sao trong nhóm Song Ngư vào năm thứ 7 trước công nguyên. Có nghĩa là, sao Mộc và sao Hỏa, biểu tượng của người Do Thái gặp nhau trên bầu trời nhưng vẫn cách nhau một khoảng gần bằng đường kính của mặt trăng. Vài năm sau đó một sự hội ngộ khác lại diễn ra vào tháng 08 năm 03 trước công nguyên, Mộc tinh tiến gần sao Vệ Nữ – một ngôi sao rất sáng.
Ngày 17/06 năm 02 trước công nguyên, hai sao trên lại gặp nhau nhưng không va chạm, nhưng tạo thành một ngôi sao lạ, sáng chói khắp miền Trung Đông mà Kinh Thánh đã gọi là ngôi sao Bethlehem. Ngoài ra, với người theo đạo Ky-tô xưa thì ngôi sao Vệ Nữ, tức là sao Hôm mọc trước bình minh, được coi là biểu tưọng của Chúa Jesus, còn sao Hải Sư lại được người Do Thái coi là sao hộ mạng. Đây là hai ngôi sao sáng nhất trong Thái dương hệ và hiện tượng hội ngộ giao thoa, chỉ xảy ra một lần trong hai ba thế kỷ, như giải thích ở trên, được xem là giả thuyết hợp lý về ngôi sao Bethlehem trong truyền thuyết.
Ngoài ý nghĩa khoa học kể trên, ngôi sao Noel còn có một ý nghĩa tâm linh vô cùng quan trọng đối với những người công giáo. Đó là ngôi sao dẫn lối chỉ đường cho họ đến với Đức Chúa. Người theo đạo Ky-tô tin rằng ngôi sao đó cũng chính là Chúa Jesus và ánh sáng ngôi sao của Chúa sẽ xóa tan bóng tối đêm đông lạnh giá, thắp lên một mùa xuân mới ấm áp và hạnh phúc cho muôn dân.
Vì sao Noel cần có cây thông?
Giữa những năm 2000 trước Công nguyên, theo lịch của người Celte, mỗi tháng của năm đều liên kết với một loại cây. Cây Epicea tượng trưng cho sự sống liên kết với ngày 24 tháng 12. Để làm lễ cho ngày Đông chí, người ta dùng hoa quả và lúa mì để trang trí cho cây.
Năm 354, nhà thờ làm lễ Giáng sinh đầu tiên cho Chúa Jesus lấy ngày 25/12 để cạnh tranh với lễ đa thần trên. Tuy nhiên, cây Noel thực sự lại xuất hiện trễ hơn rất nhiều.
Người ta kể rằng vào thế kỷ thứ VII có một nhà tu người Anh, Thánh Boniface, trên đường hành hương tình cờ bắt gặp một nhóm những kẻ ngoại đạo sùng bái tập trung quanh một cây sồi lớn và dùng một đứa trẻ để tế thần. Ðể dừng buổi tế thần và cứu đứa trẻ, Boniface đã hạ gục cây sồi chỉ bằng một quả đấm. Tại nơi đó đã mọc lên một cây thông nhỏ. Vị thánh nói với những kẻ ngoại đạo rằng cây thông nhỏ là cây của sự sống và nó tượng trưng cho cuộc sống vĩnh hằng của Chúa cứu thế. Từ đó người ta trồng cây thông con để làm lễ Giáng sinh.
Thế kỷ thứ XI, cây Noel được trang hoàng bằng những trái pom đỏ, tượng trưng cho cây thiên đàng, trên đó người ta treo trái cấm của bà Eva. Bắt đầu từ thế kỷ thứ XII cây sapin xuất hiện tại Châu Âu, nói chính xác hơn là vùng Alsace. Từ "cây Noel" được gọi lần đầu tiên tại Alsace vào năm 1521. Cũng vào thời kỳ đó, hình ảnh ngôi sao gắn trên đỉnh cây tượng trưng cho ngôi sao Bethleem bắt đầu trở nên phổ biến. Thế kỷ XII và XIII các cây sapin chiếu sáng đầu tiên xuất hiện. Người ta dùng những vỏ trái hồ đào đựng đầy dầu, trên mặt để tim đèn, hay đèn sáp mềm, cột quanh cành thông.
Các nước Thụy Điển, Đan Mạch, Na Uy thường trang hoàng nhà cửa bằng cây xanh nhân dịp năm mới để xua đuổi ma quỉ. Họ còn dựng cây cho chim trú ngụ trong mùa Giáng sinh. Làm lễ Giáng sinh quanh một cái cây, biểu tượng của cây trên Thiên Ðàng và đủ loại kẹo đã nhanh chóng trở thành một tập tục ở Đức. Phải chờ đến gần một thế kỷ sau tập tục đó mới đến mọi gia đình người Pháp, nhất là sau chiến tranh năm 1870, có hàng ngàn gia đình người Alsace-Lorraine di cư qua Pháp.
Đầu thế kỷ thứ XIX, cây Noel được du nhập vào nước Anh nhờ ông hoàng Albert, chồng của Nữ hoàng Victoria và rất được tán thưởng. Vào thời đó, người ta gọi cây Noel là Victorian Tree (Cây thời Victoria). Victorian Tree được trang trí bằng đèn sáp, kẹo, cùng các thứ bánh treo ở cành cây bằng dây giấy đủ màu. Cây Noel được thịnh hành nhất vào thế kỷ thứ 19. Nó cũng được người dân những nước như Áo, Thụy Sĩ, Phần Lan, Hà Lan, tán thưởng trong thời kỳ này.
Hiện nay, khắp nơi trên thế giới đều tổ chức lễ Giáng sinh và trưng cây Noel. Vì thế, cây Noel là hạnh phúc của mọi người, từ người già cho đến trẻ nhỏ.
Quà tặng của Piccola
Truyền thuyết về Piccola được lan truyền đi nhiều nước và được dịch sang nhiều ngôn ngữ như Pháp, Ðức, Ý và các ngôn ngữ khác. Truyền thống ở các nước này là vào đêm Giáng sinh bọn trẻ thường để những đôi giày của chúng ở cửa để thánh Nicholas bỏ quà vào trong đó.
Ngày xửa ngày xưa, đã lâu lắm rồi, tại một làng quê nghèo nọ có gia đình cô gái Piccola sống sinh sống ở đó. Người dân trong làng nghèo lắm nên họ thường dời làng lên thành phố để làm việc ở nhà máy, hoặc đi ăn xin trên các đường phố. Một số người còn mơ ước được sang Mỹ, nhưng không ai ở cái làng này có tiền cả. Một trận hạn hán đã tàn phá mùa màng của họ và làm cho cây cối cằn cỗi. Thỉnh thoảng lại có những cuộc chiến tràn qua làng, đôi khi là những cuộc chiến nhỏ, đôi khi là những cuộc chiến lớn. Những tên lính đi qua và cướp bóc của cải của dân làng, chúng lấy đi tất cả thức ăn mà dân làng bấy lâu nay cố gắng giành dụm. Do đó chỉ còn vài gia đình còn sống sót trong đó có gia đình Piccola xinh đẹp.
Căn nhà của gia đình cô bé sắp bị đổ, vả lại nó cũng không có kính ở cửa sổ phòng cô bé. Và trong làng cũng chẳng có nhà nào là có kính ở cửa sổ cả, mà chỉ là những cửa chớp bằng gỗ. Hàng ngày mẹ của Piccola thường lấy bùn và dẻ rách hoặc bất cứ cái gì bà có thể tìm thấy để bịt lại những vết nứt ở trong nhà, để cố gắng làm cho căn nhà trở nên ấm hơn một chút trong mùa đông giá rét. Nhưng ban đêm Piccola thường mở những cánh cửa chớp của cửa sổ gần cái góc ấm cúng của cô trong gác xép của căn nhà, thả hồn vào những ngôi sao và mơ ước sẽ không phải chịu giá lạnh nữa. Tất nhiên là khi bố mẹ cô cảm thấy lạnh vì gió lùa vào thì họ lại đi đến đóng cửa sổ và nhắc nhở cô phải đi ngủ.
Piccola chưa bao giờ được biết đến sự giàu có, thậm chí là một bữa ăn no căng bụng. Nhưng cô vẫn chơi với chúng bạn và quan tâm đến các con vật còn sống sót. Cô đi kiếm cỏ khô ở trên cánh đồng, nhặt nhạnh những ngọn cỏ khô còn sót lại trong nhà kho cho chúng. Dần dần chúng bạn cô cũng bỏ làng ra đi, chỉ còn lại Piccola là đứa trẻ duy nhất ở lại làng này. Mùa đông đến, gió lạnh thổi qua những con đường vắng tanh. Piccola có thể chạy bất cứ nơi đâu trên đường và hét to tên cô lên, nhưng chẳng ai đáp lại cô cả. Những người dân còn ở lại đều coi cô như con cháu họ, vì cô là đứa trẻ duy nhất còn ở lại.
Piccola trở nên hoang dã giữa bầy thú. Cô dành hầu hết thời gian để chơi với những người bạn không biết nói này, quan tâm chăm sóc chúng khi bố cô đi săn trong rừng, mẹ cô cặm cụi mót những gì còn sót lại ở cánh đồng. Cô mặc tất cả những thứ quần áo mà cô đã tìm thấy sau những ngôi nhà và cuốn lên người những mảnh dẻ rách, đội chiếc mũ đã bị rách nát. Như vậy cô có thể được ủ ấm như một cái bánh mì nướng nhưng trông cô giống như một kẻ ăn mặc rách rưới tả tơi. Cô học cách bẫy và bắt thỏ. Vào một ngày kia khi Piccola đang tìm kiếm những vết chân thỏ trong tuyết để đặt bẫy thì cô tìm thấy một con chim sẻ gẫy cánh đang nằm trên mặt đất. Cô nâng con sẻ đó lên, đặt nó vào trong mớ quần áo của mình và đem về nhà. Một tháng mùa đông giá lạnh trôi qua. Cô chăm sóc con chim đó trong ngôi nhà của mình, cho nó ăn những mẩu hạt ngũ cốc ít ỏi của gia đình cô kiếm được. Gia đình cô hiếm khi được no bụng. Khi dân làng biết được tin về con chim của cô thì cứ vài ngày, lại có một người mang đến cho con sẻ của cô mẩu bánh mì hay một nhánh cỏ khô, một ít hạt giống. Con sẻ trở thành người bạn tâm tình của cô. Cô có thể nói chuyện với nó suốt đêm trong cái góc nhỏ bé của mình gần mái nhà, thì thầm vào đôi tai nhỏ xíu của nó, và kể cho nó nghe tất cả những chỗ bí mật ở trong gỗ mà cô biết. Cô làm cho con sẻ một cái giường nhỏ xíu ở trong đôi giầy gỗ của mình và hàng đêm đặt nó vào đó, còn cô thì nằm trên giường cạnh nó. Ðôi khi con sẻ cất tiếng kêu chíp chíp đằng sau lưng cô, giương cặp mắt đen thông minh nhìn cô. Piccola hiểu rằng nó hiểu những gì cô nói, có lẽ nó còn hiểu cô hơn là con cừu, con ngựa què hoặc con gà mái già khi mỗi buổi sáng cô cho chúng ăn.
Con chim sẻ đã nhanh chóng bình phục. Một tuần trước lễ Giáng sinh, vào một ngày nắng đẹp con sẻ nhảy lên ngưỡng cửa sổ và bay đi, nó bay khỏi ngôi nhà về rừng. Piccola nói với bố mẹ là cô không sao, rằng đó là con vật hoang dã, nó phải trở lại với rừng. Nhưng đêm đó, khi mẹ Piccola đóng cửa sổ và giục cô đi ngủ bà nhìn thấy những giọt nước mắt lăn trên má cô con gái của mình. Piccola đã giả vờ ngủ và không trả lời khi mẹ giục đi ngủ.
Tuần đó không ai nhìn thấy Piccola chạy trên đường phố. Cũng không ai nhìn thấy cô từ rừng đi về như thường lệ mang theo con thỏ bẫy được về nhà để cho bữa tối. Cô ở nhà và không ai biết được chuyện gì đã xảy ra. Trong thời gian đó, bọn trẻ thường đặt những đôi giày của chúng ra để chờ thánh Nicolas đặt quà vào đó. Nhưng rất lâu bọn trẻ của ngôi làng này không nhận được món quà nào cả. Hàng năm bố mẹ của Piccola thường kiếm một chút gì đó làm quà bỏ vào giầy cho cô con gái của mình, khi thì một cái dây ruy- băng, khi thì ba cái cúc màu xanh da trời. Nhưng năm nay lại chẳng có gì cho cô cả. Mẹ cô cảm nhận được nét buồn trên khuôn mặt cô. Ðêm Nô- en đã đến, Piccola cũng để đôi giày của cô ra để chờ thánh Nicolas để quà vào đó. Nhưng dường như thánh Nicolas đã quên hẳn ngôi làng xa xôi hẻo lánh này và quên hẳn cô gái cô đơn này.
Ðêm đó bố Piccola đã mơ nhưng ông không thể nhớ được những gì diễn ra trong mơ. Trong mơ ông cảm thấy cái nóng của giữa trưa mùa hè mà chắc hẳn phải hắt vào từ cửa sổ không đóng của Piccola. Mặc dù bị vợ ngăn lại nhưng ông vẫn đi tới phía chiếc thang đi lên gác xép của Piccola, nhẹ nhàng để không đánh thức cô dậy, ông tháo chốt và mở cửa chớp. ánh sáng tràn ngập căn phòng, và ông nghĩ là ông nhìn thấy một vật gì đó bay xuyên qua. Có lẽ chẳng có gì, ông nghĩ, tự nhiên cảm thấy mệt và ông đã trở lại đi ngủ ngay.
Sáng hôm sau Piccola thức giấc và cảm thấy khoan khoái hơn kể từ khi con sẻ bỏ đi. Một ngày nắng đẹp và ấm áp hơn – nhưng liệu đêm hôm qua cô có mở cửa sổ không? Piccola không thể nhớ những gì cô làm tối qua. Cô chỉ nhớ rằng đó là đêm Giáng Sinh và Thánh Nicolas đã không thể đến thăm một làng nghèo xa xôi hẻo lánh, và một đứa trẻ cô đơn như cô, ý nghĩ đầu tiên đã làm cô rất buồn, nằm trên giường nghĩ ngợi, và cô quyết định sẽ xua tan mọi buồn phiền, cô trèo ra khỏi giường, lấy giầy và đi và nhìn vào, kiểm tra kỹ giầy của cô, cô phát hiện thấy có cái gì đó trong giầy của cô, cô nhìn kỹ thì ra đó là con chim sẻ của cô, chắc là nó đã bay qua cửa sổ vào ban đêm, và nó đã nằm vào chỗ trước đây của nó trên giường. Nó nháy mắt với cô bé và con chim thông minh cất tiếng chíp chíp chào cô.
Cô đã đúng – Thánh Nicolas đã không thể đến với ngôi làng nhỏ bé và với cô bé cô đơn được, nhưng người đã không quên cô, người đã gửi con chim sẻ lại cho cô như một món quà Giáng Sinh. Kể từ đó con chim nhỏ không bao giờ rời khỏi cô, nó luôn ở bên cô như một niềm an ủi đối với cô bé nghèo cô đơn Piccola.
Truyền thuyết về ba túi vàng của Thánh Nicholas
Khi Thánh Nicholas còn là Giám mục nhà thờ Myra, tại xứ này có ba trinh nữ xinh đẹp, con gái của một nhà quý tộc. Theo phong tục ở đây nếu các thiếu nữ không có của hồi môn thì không được phép kết hôn. Nhưng vị quý tộc nọ lại rất nghèo không có tài sản gì đáng giá để cho các con làm của hồi môn, vì thế ba thiếu nữ không được phép kết hôn.
Càng ngày người cha càng trở nên nghèo khó hơn và ông không thể mua sắm quần áo ấm cho các con mình, ông cảm thấy vô cùng xấu hổ và buồn phiền khi thấy các con mình khóc vì lạnh và đói.
Một ngày nọ vị thánh Nicholas biết được nỗi buồn phiền của gia đình họ. Ðêm hôm đó người mang một túi đầy vàng đến trước cửa nhà người quý tộc nọ và ném túi đó qua cửa sổ vào giường ngủ của các cô gái. Tiếng rơi của túi vàng làm người cha rất ngạc nhiên, ông liền đi đến chỗ phát ra tiếng kêu và nhìn thấy có một chiếc túi ở trên giường. Ông liền mở ra và vô cùng ngạc nhiên và vui sướng khi thấy đầy vàng ở trong túi. Ông liền đánh thức các con của mình dậy và ông cho cô con gái lớn của mình gần hết túi vàng để làm của hồi môn, nhờ có túi vàng này cô con gái lớn của ông được phép kết hôn với người mình yêu.
Vài đêm sau thánh Nicholas lại đến nhà người quý tộc nghèo nọ và người lại ném một túi đầy vàng cho gia đình họ, và cũng nhờ có túi vàng này làm của hồi môn mà cô con gái thứ hai của người quý tộc nọ được lấy người cô yêu.
Lúc đó người quý tộc rất băn khoăn không biết ai đã thầm giúp đỡ gia đình ông, vì thế ông rất mong sẽ gặp được ân nhân đã giúp gia đình mình để cảm tạ. Ông mong tìm ra người đã giúp đỡ gia đình ông vì thế ông hàng đêm ông đã thức và chờ bên cửa sổ để đợi ân nhân, và một hôm thánh Nicholas lại mang túi vàng thứ ba đến cho gia đình quý tộc nọ giúp cho cô út của gia đình có của hồi môn để cô có thể kết hôn. Khi người vừa tung túi vàng lên để ném qua cửa sổ như mọi lần thì người cha ôm chầm lấy tay người, hôn lên tay người và không cầm được nước mắt thốt lên:
"Ôi Thánh Nicholas tốt bụng! tại sao người lại dấu chúng con?"
Thánh Nicholas ôn tồn nói: "nó chẳng đáng gì, ta chỉ muốn giúp đỡ các con chiên của ta thôi, hãy đứng lên đi con và con phải hứa với ta một điều".
Nghe thánh Nicholas nói thế người cha đáp lại: " Vâng, con xin hứa sẽ thực hiện mong muốn của người xin người hãy nói".
Thánh Nicholas nhân từ luôn giúp đỡ mọi và chẳng bao giờ đòi hỏi gì cả nói với vị quý tộc nọ: "Ta chỉ cần con không nói cho ai biết điều này là được".
Lịch sử và nguồn gốc cây Noel
Người ta gọi "cây Noel" lần đầu tiên tại Alsace vào năm 1521.
Thế kỷ thứ XIV, người ta trang trí cây thông bằng những trái pom của bà Eve, kẹo và bánh. Cũng vào thời kỳ đó, một ngôi sao trên đỉnh cây tượng trưng cho ngôi sao Bethleem bắt đầu được phổ biến.
Năm 1560 những người theo đạo Tin Lành phát triển truyền thống cây thông Noel.
Thế kỷ XII và XIII các cây sapin chiếu sáng đầu tiên xuất hiện. Người ta dùng những vỏ trái hồ đào (noix) đựng đầy dầu, trên mặt để tim đèn, hay đèn sáp mềm, cột quanh cành thông.
Năm 1738, Marie Leszczynska, vợ vua Louis XV nước Pháp, đã trang hoàng một cây Noel trong lâu đài Versailles.
Tại Alsace-Lorraine, người ta thấy càng ngày càng nhiều cây sapin, nơi đầu tiên có truyền thống này.
Năm 1837, bà công tước Orléans, Hélène de Mecklembourg, gốc người Đức cho người trang hoàng một cây sapin tại điện Tuileries.
Giữa năm 2000 và 1200 trước Công nguyên, người ta đã nói về một loại cây thông épicéa vào ngày 24 tháng 12, bởi vì người ta xem như ngày này là ngày tái sinh của Mặt trời.
Dân tộc Celte dùng lịch theo chu kỳ Mặt trăng. Mỗi tháng của năm đều liên kết với một loại cây. Cây Epicea liên kết với ngày 24 tháng 12. Để làm lễ cho ngày Đông chí, một cây xanh tượng trưng cho sự sống được trang trí bởi trái, hoa và lúa mì.
Năm 354, Nhà Thờ làm lễ Giáng sinh đầu tiên cho Chúa Jesus, lấy ngày 25 tháng 12 để cạnh tranh với lễ đa thần trên.
Nếu Noel được phát minh vào ngày 25/12/354, thì Cây Noel được phát minh rất trễ sau này.
Người ta kể rằng vào thế kỷ thứ VII có một nhà tu người Đức, Thánh Boniface (sinh năm 680), muốn thuyết phục các tu sĩ Đức tại vùng Geismar rằng cây sồi không phải là một loài cây thiêng liêng. Ông đốn một cây sồi và khi cây ngã, nó đè tan nát hết tất cả mọi vật, trừ một cây sapin trẻ.Từ huyền thoại này, chuyện kể thêm rằng Thánh Boniface đã cho rằng sự ngẫu nhiên trong sáng đó là một phép lạ và tuyên bố "kể từ nay, ta gọi tên cây này là cây Chúa Hài đồng Jesus". Từ đó người ta trồng cây thông con để làm lễ Giáng sinh.
Thế kỷ thứ XI, cây Noel được trang hoàng bằng những trái pom đỏ, tượng trưng cho cây thiên đàng, trên đó người ta treo trái pomme của bà EVE. Bắt đầu từ thế kỷ thứ XII mà truyền thống cây sapin được xuất hiện tại Âu Châu, nói chính xác hơn là vùng Alsace.
Thế kỷ thứ XIV, người ta trang trí cây thông bằng những trái pom của bà Eve, kẹo và bánh. Cũng vào thời kỳ đó, một ngôi sao trên đỉnh cây tượng trưng cho ngôi sao Bethleem bắt đầu được phổ biến.
Năm 1560 những người theo đạo Tin Lành phát triển truyền thống cây thông Noel.
Thế kỷ XII và XIII các cây sapin chiếu sáng đầu tiên xuất hiện. Người ta dùng những vỏ trái hồ đào (noix) đựng đầy dầu, trên mặt để tim đèn, hay đèn sáp mềm, cột quanh cành thông.
Năm 1738, Marie Leszczynska, vợ vua Louis XV nước Pháp, đã trang hoàng một cây Noel trong lâu đài Versailles.
Tại Alsace-Lorraine, người ta thấy càng ngày càng nhiều cây sapin, nơi đầu tiên có truyền thống này.
Năm 1837, bà công tước Orléans, Hélène de Mecklembourg, gốc người Đức cho người trang hoàng một cây sapin tại điện Tuileries.
Làm lễ Giáng sinh quanh một cái cây, biểu tượng của cây trên Thiên Ðàng và đủ loại kẹo đã trở thành một truyền thống nhanh chóng bên Ðức. Phải chờ đến gần một thế kỷ để truyền thống đó đến mọi gia đình người Pháp, nhất là sau chiến tranh 1870, có hàng ngàn gia đình người Alsace-Lorraine di cư qua Pháp.
Chính nhờ thời kỳ đó mà cả nước Pháp thu nhập truyền thống này.
Đầu thế kỷ thứ 19 Cây Noel được nhập vào nước Anh và rất được tán thưởng, nhờ ông hoàng Albert, chồng của Nữ hoàng Victoria. Vào thời đó, người ta gọi cây Noel là Victorian Tree. Cây Victorian Tree được trang trí bằng đèn sáp, kẹo, cùng các thứ bánh treo ở cành cây bằng dây giấy đủ màu.
Cây Noel được thịnh hành nhất vào thế kỷ thứ 19. Cây Noel cũng được những nước Áo, Thụy Sĩ, Phần Lan, Hòa Lan tán thưởng trong thời kỳ này. Hiện nay, khắp nơi trên thế giới đều tổ chức lễ Giáng sinh và chưng cây Noel.
Giờ đây cây Noel là hạnh phúc của mọi người, từ trẻ con cho tới người già.
Truyền thuyết về bộ quần áo đỏ
Ông già tuyết chưa trở thành ông già tuyết, vì ông vẫn mặc bộ quần áo tiều phu cũ kỹ, cưỡi ngựa mỗi khi đến cho quà bọn trẻ. Một ngày nọ, ông địa chủ làng Nicholas đi ngang qua nhà ông, và lập tức Nicholas bị mê hoặc bởi chiếc xe kéo với hai con tuần lộc xinh đẹp, xe có gắn những cái chuông kêu lanh canh dễ thương.
Ông địa chủ mặc một bộ đồ đỏ tươi, đầu đội mũ lông cùng màu. " Mình cũng đáng để có nó lắm chứ, con ngựa nhà mình đã quá già và hay than thở, còn bộ quần áo này thì không chịu nổi cái giá rét mùa đông nữa".
Nicholas tìm đến bà thợ may giỏi nhất vùng để có bộ đồ đỏ mơ ước ấy. Nhưng lạ lùng thay, khi bộ đồ hoàn thành thì nó to đến độ trông Nicholas như lọt thỏm vào trong ấy "Ôi tôi đã làm hỏng bộ đồ của ông rồi, nó mới thùng thình làm sao!". "Không sao cả, tôi sẽ ăn bánh kẹo cho người to lên như bộ quần áo. Cái quần dài này ư? Tôi sẽ mang một đôi ủng đen để bớt độ lùng xùng. Và bà cứ yên tâm, trông tôi sẽ tuyệt vời trong bộ quần áo này đấy!" .
Và như thế, ông già Noel đã ra đời như một huyền thoại, nhưng đến mấy mươi năm sau, thì bộ trang phục đỏ gắn liền với huyền thoại ấy mới có.
Còn bây giờ, hãy tự tin mà bảo với với mọi người rằng: "Ông già Noel trên xe trượt tuyết với hai con tuần lộc là hoàn toàn có thật".
Chúa Jesus đã ra đời như thế nào?
Lễ Giáng Sinh là một nghi lễ đặc biệt quan trọng của nhà thờ Thiên Chúa Giáo được tổ chức vào ngày 25 tháng Mười Hai hàng năm. Mục đích của nghi lễ là nhằm tái hiện lại cảnh tượng Chúa Giê su ra đời, thể hiện lòng nhân từ và sự khiêm nhường của Ðức Chúa.
Xin giới thiệu với các bạn đoạn trích chương 2 trong cuốn kinh phúc âm Tân Ước để các bạn hiểu rõ thêm về lễ Giáng Sinh:
Chúa Giê Su ra đời: Người chăn chiên đến viếng thăm
Thời ấy, hoàng đế Au-gút-tô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. Ðây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Qui-ri-ni-ô làm tổng trấn xứ Xy-ri-a. Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. Bởi thế, ông Giu-sê từ thành Na-da-rét, miền Ga-li-lê, lên thành Bê-lem, miền Giu-đê, là thành vua Ða-vít vì ông thuộc về nhà và gia tộc với vua Ða-vít. Ông lên đó khai tên ông cùng với người đã thành hôn với ông là bà Ma-ri-a, lúc đấy đang có thai. Khi hai người đang ở đó thì bà Ma-ri-a đã đến ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt trong máng cỏ vì hai người không tìm được chỗ trong nhà trọ. Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật. Và kìa sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu toả xung quanh khiến họ kinh khiếp hãi hùng. Nhưng sứ thần bảo họ: "Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay một Ðấng Cứu Ðộ đã sinh cho anh em trong thành vua Ða-vít, Người là đấng Ki-tô Ðức Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ". Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng:
"Vinh danh Thiên Chúa trên trời
Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương"
Khi các thiên sứ từ biệt mấy người chăn chiên để về trời, những người này bảo nhau: " Nào chúng ta sang Bê-lem để xem sự việc xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết ". Họ liền hối hả ra đi. Ðến nơi họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. Thấy thế, họ liền kể lại những điều đã được nói với họ về Hài Nhi này. Nghe những người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên. Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ lại những kỉ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng. Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, về mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ.
(Tổng hợp)
Cầu chúc mọi người một Giáng Sinh an lành và một năm mới bình yên, hạnh phúc
Nhân Giáng sinh, tặng mọi người cây thông để bày trên màn hình cho tăng thêm không khí Noel, trông cũng khá đẹp mắt
Giải nén ra file *.EXE, chạy luôn, ko phải setup, mọi người cứ thoải mái dùng, ko phải sợ virus đâu nhá
Cây thông Noel